Văn Miếu – Quốc Tử được coi là ngôi trường Đại học đầu tiên ở nước ta, nơi đây đào tạo ra nhiêu nhân tài của đất nước và nơi đây nằm tọa lạc ở vị trí đắc địa, huyết mạch tiếp giáp với 4 khu phố nhộn nhịp, tấp nập của quận Đống Đa là Tôn Đức Thắng, Văn Miếu, Nguyễn Thái Học và Quốc Tử Giám, cổng chính của Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở trên con đường Quốc Tử Giám , khi đoàn khách du lịch tới đây thì nhà xe sẽ dừng chân tại cổng chính này để đoàn khách có thể mua vé và tiến hành bắt đầu vào tham quan nơi đây (Lưu ý ở nơi đây có rất nhiều đường 1 chiều)
– Địa chỉ : số 58 phố Quốc Tử Giám, phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà nội
Từ đoạn ngoài khi đi vào cổng Văn Miếu – Quốc Tử Giám du khách sẽ nhìn thấy quầy bán vé vào trong nằm ở phía bên tay trái, khách du lịch sẽ mua vé tham quan tại đây và bắt đầu qua cổng soát vé tham quan (hướng dẫn viên sẽ mua vé cho du khách và bắt đầu vào tham quan )
Thời gian thích hợp để đi tham quan Văn Miếu – Quốc Tử Giám
-Thời gian thích hợp để đi tham quan nơi đây là vào buổi sáng sớm hoặc chiều muộn để tránh nắng gay gắt
– Đi vào những ngày thường để tránh được sự đông đúc vì vào những ngày lễ và dịp cuối tuần thì địa điểm này khá đông đúc
Mua vé & Giờ mở cửa
-Giá vé: Khoảng 70.000 đồng/người lớn, 35.000 đồng/học sinh – sinh viên( có thẻ học sinh, sinh viên ), trẻ em dưới 16 tuổi: miễn phí (có thể thay đổi theo thời gian)
– Tại khu vực cổng chính Văn Miếu – Quốc Tử Giám có quầy bán vé, du khách có thể mua trực tiếp tại quầy này ( hoạt động từ 8:00 sáng đến 15:00 chiều ) hoặc mua online qua app ” Quản trị và kinh doanh du lịch “
Lưu ý :
– Vé tham quan chỉ có giá trị trong ngày nên khách tham quan nên mua vé trước khi vào tham quan
– Khách tham quan có thể mua vé tại quầy hoặc mua vé online để tiết kiệm thời gian
– Nếu du khách có giấy tờ tùy thân, thẻ học sinh , sinh viên thì nhớ đem theo để được giảm giá
-Giờ mở cửa: Nơi đây mở cửa tất cả các ngày trong tuần bao gồm cả ngày lễ ngoại trừ một số sự kiện đặc biệt.
o Mùa hè: 7h30 – 17h30
o Mùa đông: 8h00 – 17h00
Lưu ý khi tham quan
– Vì đây là nơi tôn nghiêm nên khi đến đây du khách nên mặc trang phục lịch sự , kín đáo, không nên mặc đồ quá ngắn hoặc quá hở , nên đi giày thể thao hoặc đi dép để có thể dễ dàng di chuyển khi tham quan
– Không sờ vào bia tiến sĩ, không xoa đầu rùa để bảo vệ di tích.
– Giữ gìn vệ sinh chung, không xả rác bừa bãi
– Mỗi người chỉ nên thắp 1 nén hương
-Đây là nơi tôn nghiêm nên giữ gìn trật tự , không nói tục tránh làm ảnh hưởng tới khách tham quan khác
– Nếu muốn hiểu sâu hơn, có thể thuê hướng dẫn viên hoặc dùng app hướng dẫn du lịch.
Chụp ảnh đẹp ở đâu để có những bức ảnh đẹp?
• Trước Khuê Văn Các: Địa điểm nổi bật nhất được nhiều du khách lựa chọn để chụp ảnh
• Dãy hành lang khu bia tiến sĩ: Không gian cổ kính, phù hợp chụp ảnh áo dài, các bộ Việt Phục
• Hồ Văn hoặc vườn cây: Có nhiều góc chụp rất thơ mộng, trữ tình
Địa điểm tham quan gần Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Tổng quan về Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Xưa kia Văn Miếu nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc khu vực nội thành Hà Nội, nay thuộc số 58 đường Quốc Tử Giám phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.. Văn Miếu Quốc Tử Giám có vị trí vô cùng đặc biệt bốn bề đều tiếp giáp với bốn tuyến đường. Các hướng cụ thể của khu di tích như sau.Phía Bắc: Giáp với phố Nguyễn Thái Học. Đây là hướng nằm phía sau của khu di tích.Phía Nam: Giáp với phố Văn Miếu. Đây là lối vào chính của Văn Miếu với cổng Tam Quan (Văn Miếu Môn) mở về hướng này, một đặc điểm theo quan niệm phong thủy, biểu tượng cho sự khai thông tri thức. Phía Đông: Giáp với phố Tôn Đức Thắng.Phía Tây: Giáp với phố Quốc Tử Giám, nơi có lối vào chính khác và là con đường nối với khu Quốc Tử Giám.
Sau khi lên ngôi vào năm 1076 vua Lý Nhân Tông đã cho lập trường Quốc Tử Giám ngay bên cạnh Văn Miếu . Đây là ngôi trường chỉ dành riêng cho con cái các bậc vua quan, quyền quý lúc bấy giờ. Năm 1253, dưới thời vua Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc học viện, thu nhận cả con em nhà thường dân học giỏi. Từ năm 1300 – 1357, tức thời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được mời nhậm chức Quốc Tử Giám tư nghiệp, tương ứng với chức vụ hiệu trưởng của ĐHQGHN ngày nay . Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ Tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế.
Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn miếu Hà Nội. 1805, Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn các bên cạnh giếng vuông. Vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã được tu sửa lấy tên là Văn miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Đặc Biệt là sự kiện nghìn năm Đông Đô Hà Nội đã hoàn thiện lại nhà Thái Học cũng như trùng tu và bảo tồn Di tích để có một khuôn viên như ngày nay ! Văn Miếu – Quốc Tử Giám có một bố cục truyền thống với trục đối xứng chính theo hướng nam, đặc trưng của kiến trúc cổ đại, đặc biệt là các công trình thờ phụng Nho giáo. Văn Miếu Quốc Tử Giám có diện tích khoảng 54000m2 được chia làm hai khu đó là khu ngoại tự và khu nội tự. Khu Ngoại Tự và Nội Tự được thiết kế theo trục chính nối liền từ cổng vào đến điện thờ, thể hiện triết lý “hướng vào trong” của Nho giáo, tôn vinh sự tĩnh lặng, học hỏi, và chiêm nghiệm. Không gian tự nhiên ở Ngoại Tự như cây cối, hồ nước đóng vai trò tạo nên sự yên bình, giúp chuẩn bị tâm thế trước khi bước vào khu vực Nội Tự linh thiêng. Với bề dày lịch sử như vậy nơi đây không chỉ là điểm đến tham quan cho các du khách mà còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hoá tiêu biểu như các hội thảo khoa học, triển lãm chuyên đề, tuyên dương các thủ khoa xuất sắc tốt nghiệp các trường đại học, học viện trên địa bàn Hà Nội; trao giấy chứng nhận học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư hay tổ chức thường niên Hội sách, Ngày thơ Việt Nam… Đây cũng chính là nơi mà góp phần vào sự phát triển về mọi mặt của thủ đô cũng như cả nước. Hiện nay, các hạng mục kiến trúc chính trong di tích đã được tu bổ, phục dựng để phục vụ khai thác du lịch của thủ đô cũng như của cả nước.
Khu nội tự và khu ngoại tự
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chia thành 2 khu , khu nội tự và khu ngoại tự
1. Khu ngoại tự
1.1 HỒ VĂN
Đầu tiên nói đến khu ngoài tự này thì đó là Hồ Văn , nơi đây với quy mô hiện đại hơn 12000m2, được nằm đối diện với cổng chính của di tích . Chúng ta biết rằng người xưa khi xây dựng các công trình kiến trúc đều căn cứ vào thuật phong thủy, Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng vậy, khi xây dựng người ta đã chọn hồ Văn làm minh đường, dãy gò Bắc Đấu Sơn làm tiền án, còn hậu chẩm là đoạn tường thành Thăng Long nay là đường phố Nguyễn Thái Học. Ngày trước thì giữa hồ có có gò Kim Châu, trên dựng một phương đình được gọi là ” Phán Thủy Đình” , là nơi diễn ra các buổi bình thơ của các Nho sĩ nhưng phương đình này hiện nay đã không còn và chỉ còn lưu lại 2 tấm bia nói về vẻ đẹp và quá trình trả hồ Văn về cho Văn Miếu.
Từ năm 1893, chính quyền thực dân đã tiến hành mở rộng và quy hoạch các khu phố phía Tây Hà Nội từ vị trí Thành cố, do vậy nhiêu con đường mới được xây dựng ở khu vực xung quanh Văn Miêu. Và chính trong khoảng thời gian này, hô Văn đã bị tách ra và đặt dưới quyền quản lý của tỉnh Hà Đông. Do không được quản lý chặt chẽ nên khu vực hồ Văn đã bị lấn chiếm, vậy nên diện tích của nơi đây đã bị thu hẹp rất nhiều so với lúc ban đầu. Sau một khoảng thời gian dài, đứng trước tình trạng trên thì các quan lại, thân hào tỉnh Hà Đông và thành phố Hà Nội đã gửi một lá đơn cho Tổng đốc tỉnh Hà Đông để xin chuyển yêu cầu đưa trả lại Hồ Văn cho Vặn Miếu. Và tất nhiên rồi ạ, lá đơn này đã được thông qua và Hồ Văn lại được trở lại thành một phần của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Tuy rằng nơi đây vẫn bị ngăn cách bởi đường Quốc Tử Giám nhưng vẫn đủ làm hoàn thiện cho thế đất tựa sơn hướng thủy của quần thể di tích.
Tên gọi ” Hồ Văn” có ý nghĩa là ” Hồ của văn chương” , thể hiện tinh thần trọng chữ nghĩa, trọng tri thức của người xưa. Hồ Văn từng là không gian dành cho hoạt động văn hóa và khoa cử dưới triều Nguyễn. Nơi đây gắn liền với sự phát triển của Văn Miếu – Quốc Tử Giám , trung tâm giáo dục và đào tạo bậc cao nhất trong thời phong kiến. Hồ Văn cùng Văn Miếu – Quốc Tử Giám tạo thành một quần thể di tích hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Không chỉ mang giá trị lịch sử mà nơi đây còn là một không gian thư giãn, nơi người dân có thể tản bộ và tận hưởng vẻ đẹp bình yên giữa lòng Thủ đô.
1.2. KHU VỰC VƯỜN GIÁM
Khu ngoại tự là khu vực Vườn Giám nằm ở phía Tây của di tích. Nơi đây cũng từng rơi vào chung hoàn cảnh bị tách ra như Hồ Văn. Hiện nay, Vườn giám đã trở thành một phần không thể thiếu của quần thể di tích với rất nhiều cây xanh, nhà bát giác cùng không gian trong lành, thoáng đãng.Hai tấm bia “Hạ mã” ở hai bên khu Tiền án của khu di tích, hai chữ “Hạ mã” có nghĩa là xuống ngựa, được dựng lên để nhắc nhở những người đi qua đây, dù là bậc công hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe thì đều phải xuống ngựa đi bộ ngang qua để biểu thị lòng tôn kính với các bậc Tiên thánh, Tiên hiền. Bia do Thượng thư Bộ công, Tư nghiệp Quốc Tử Giám Nguyễn Hoản cho xây dựng năm 1771, được đặt trong nhà che bia, bên dưới là bệ, kiến trúc nhỏ nhắn và vuông vắn rất hài hoà với toàn bộ không gian xung quanh. Xưa kia, bia “Hạ mã” cùng với tứ trụ trước cổng Văn Miếu được xem là mốc giới hạn xác định ranh giới chiều ngang của Văn Miếu
1.3. TỨ TRỤ
Khu ngoại tự chính là tứ trụ hay còn gọi là nghi môn ngoại . Kiểu kiến trúc này có tên là Trụ biểu lồng đèn, hình lập phương, gồm có 4 phần. Ở tứ trụ Văn Miếu, trên đỉnh hai trụ giữa xây cao hơn hai trụ phía ngoài hình hai con nghê chầu vào. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là con vật linh thiêng có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Bởi vậy, nó được tạc hình trên đỉnh tứ trụ nghi môn với mục đích trông giữ, soi xét tấm lòng hiếu học hướng về Nho giáo của người học mỗi khi bước vào Văn Miếu. Phượng hoàng là loài chim linh vật tượng trưng cho vũ trụ, cho trời đất, hình ảnh bốn con chim phượng chắp đuôi vào nhau trên đỉnh nghi môn tượng trưng cho bốn phương đất trời, vũ trụ, trời đất đều hội tụ nơi đây, làm nên linh khí muôn đời còn mãi. Xung quanh tứ trụ có đắp nổi các câu đối chữ Hán ca ngợi và đề cao đạo thánh hiền. Trên 1 đoạn đường ngắn từ tứ trụ tới Văn Miếu Môn có một lối kiến trúc nhất quán là “Tứ trụ tạo tam môn/ Tam môn quy nhất lộ/ Nhất lộ khai vạn phúc/ Vạn phúc hội Văn Môn”. Đây là 1 cấu trúc hình tượng nhằm thể hiện sự phát triển thông qua con đường học vấn: 4 cột trụ tạo ra 3 cửa, ba cửa lại quy về một con đường là con đường học tập. Đây là con đường mang tên “Khai giác lộ”, mở mang trí tuệ, nảy sinh phúc ấm cho con người. Vạn phúc sẽ hội tụ nơi cổng Văn Miếu.
2. Khu Nội Tự
2.1 Văn Miếu Môn
Văn Miếu Môn là chiếc cổng ngoài cùng của Văn Miếu, xưa kia nó được làm bằng gỗ, là một toà lầu, trên có 3 chữ đại tự là “Thái Học Môn” được xây dựng từ năm 1511. Sang thời Nguyễn, Tam quan chính của Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội được xây dựng lại bằng chất liệu gạch, vôi vữa và đặt biển tên là Văn Miếu Môn. Kiến trúc Văn Miếu Môn khá độc đáo và đẹp mắt, là một kiến trúc thuần việt, một tam quan lớn xây hai, ba cửa. Cửa giữa to cao. Tầng trên đề ba chữ “Văn Miếu Môn”, nhìn bề mặt hình vuông, tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên tầng dưới, xung quanh thừa ra một hàng hiên rộng bốn mặt có lan can, phía bên ngoài tầng dưới chỉ mở một cửa cuốn, đây là hai cánh cửa bằng gỗ lim mở vào trong và cửa hình bán nguyệt chạm nổi hình đôi rồng chầu mặt nguyệt và hai cửa nhỏ bên trái, bên phải phía trong là lối bậc lên tầng hai tam quan. Tầng trên làm tám mái. Bốn mái hiên và bốn mái nóc cong lên ở bốn góc, bờ nóc đắp nổi “lưỡng long triều nguyệt”. Rồng tượng trưng cho sự phồn vinh và sức mạnh của dân tộc, cho uy quyền tuyệt đối của đấng thiên tử, của nhà nước phong kiến. “Lưỡng long tranh châu” gồm hai con rồng nằm ngang hai bên, ở giữa là “quả cầu lửa” mà theo một số nhà nghiên cứu là “viên ngọc”. Hình tròn có ngọn lửa còn được giải thích là tượng trưng cho sấm sét, nguồn nước, bản thân rồng cũng gắn liền với mây mưa, mang đến mùa màng tươi tốt.
Trước cổng Văn Miếu Môn là đôi rồng thời Lê cách điệu thành hình mây, gọi là long vân, ví như người có học. 2 đôi rồng đá ở bên trong là ở thời Nguyễn, là hình tượng biểu trưng cho truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta
Ở hai bên cổng Văn Miếu Môn, hai cổng nhỏ hơn là “Tả môn” và “hữu môn”. Hai cổng tuy nhỏ nhưng cũng xây làm hai phần, tám mái nóc nom tựa kiến trúc 2 tầng. Hai cửa này khi xưa là nơi đóng mở ra vào hàng ngày của các nho sĩ trường Giám, cửa Văn Miếu Môn thì đóng quanh năm, chỉ mở cho vua qua mỗi khi ghé thăm Văn Miếu hoặc mở cho người chủ tế dịp tế lễ quan trọng trong năm.
Chạy qua cổng chính Văn Miếu Môn là con đường “Nhất chính đạo”, là con đường lát gạch Bát Tràng chạy thẳng từ Tứ Trụ nghi môn, qua các cổng chính tạo thành một trục xuyên suốt khu kiến trúc tạo nên kiểu dáng đối xứng tuyệt đối. Con đường này khi xưa cũng chỉ dành cho bậc vua chúa và người chủ tế qua lại trong các dịp tế lễ trọng đại. Còn các nho sinh thì đi lại trên hai con đường đối xứng bên cạnh xuyên qua các cổng phụ.
2.2 Đại Trung Môn
Đại Trung Môn là chiếc cổng thứ hai của khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám , đi qua một nấc cổng sẽ là một không gian ở, không gian thứ nhất, có tên là khu Nhập đạo. Khu nhập đạo này từ xưa chưa có, nó được thiết kế thêm vào thế kỷ 19. Nhập đạo, tức nói rằng người học trò đi học thì điều đầu tiên phải học chính là lễ nghi và phép tắc. Đường chính giữa là đường hoàng đạo hay còn gọi là đường thần đạo, song song hai bên sẽ có đường nhỏ để dẫn vào hai cánh cửa bên cạnh, là cửa Thành Đức và Đạt Tài. Cổng Đại Trung, bắt nguồn từ 2 tác phẩm “Đại Học” và “Trung Dung”, 2 tên sách kinh của Nho học. Cổng Đại Trung được dựng thành ba gian trên nền gạch cao, ngói lợp mũi hài, giữa có treo một biển nhỏ là Đại Trung môn, có hai hàng cột chống hiên trước và sau, ở giữa là cột chống hiên nóc. Trên nóc cổng Đại Trung có hình ảnh hai con cá chép chầu vào bình móc. Móc là một loại sương nhưng còn tinh khiết hơn sương. Bình là chứa đựng khí trời, tinh hoa, tượng trưng cho trí tuệ,nơi đây là nơi tích tụ mọi tinh hoa của trời đất. hình ảnh hai con cá chép nằm tại Văn Miếu khiến người ta liên tưởng đến sự tích cá chép vượt vũ môn hóa rồng. Theo tương truyền, tại vùng đất Thần Châu có một con sông linh thiêng được đặt tên là sông Hoàng Hà. Từ trên cao nhìn xuống, sông Hoàng Hà chảy từ tây sang đông, uốn lượn, khúc khuỷu tựa như con rồng đang bay lượn giữa ngàn mây. Ở vùng trung du Hoàng Hà có một ngọn núi tên là Long Môn, nghĩa là ‘‘Cửa rồng’’, cá chép trên sông Hoàng Hà mà có thể nhảy qua Long Môn được thì sẽ hóa rồng, đó phải là một con cá chép có nội lực siêu phàm, sự bền bỉ và kiên trì, có cả trí và dũng. Cá chép là con vật mang lại sự sung túc, tài lộc, may mắn, không những vậy cá chép còn là con vật của Trời vì đã thắng cuộc thi và trở thành rồng, là vật cưỡi của ông Táo khi ông Táo về Trời. Hình ảnh con cá chép tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám tượng trưng cho các sĩ tử, nhiều năm dùi mài kinh sử đèn sách trải qua những kỳ thi khó khăn nhất để đạt danh hiệu tiến sĩ, sau đó sẽ ra giúp Vua và giúp Nước.
2.3. Khuê Văn Các và Giếng Thiên Quang
Khuê Văn Các hay còn được gọi là Gác Khuê Văn, xưa là nơi họp bình những bản văn xuất sắc của các sĩ tử trong khoa thi , và bình những áng thơ hay của các thi hào. Khuê Văn theo cách lý giải về thiên thể, sao Khuê là một ngôi sao trong Nhị Thập Bát Tú, tức là 28 ngôi sao trong 7 chòm sao có thực trên bầu trời. Khuê Văn Các là một lầu hình vuông gồm 8 mái được xây trên nền vuông lát gạch Bát Tràng và cao hơn mặt đất khoảng 1m. Phần trên của khuê văn các được dựng hoàn toàn bằng gỗ trừ phần mái thì được lợp bằng ngói âm dương truyền thống. Phần dưới của Khuê văn Các gồm có 4 trụ xung quanh, mỗi cạnh có chiều dài một mét, trên các mặt trụ cột đều chạm trổ các hoa văn tinh xảo. Với lối kiến trúc độc đáo, mỗi mặt cửa sổ đều có 1 ô cửa sổ hình tròn với những thanh trống được làm bằng những con tiện gỗ hướng ra xung quanh với sự hài hòa về kích thước, cân xứng, và những song gỗ tỏa đều như những tia ánh sáng của ngôi sao Khuê .Hai bên Khuê Văn Các là hai cửa Bí Văn và Súc Văn . Bí Văn với ý nghĩa “văn đẹp đẽ, trau truốt, sáng sủa” và Súc văn với ý nghĩa là “văn hàm ý, súc tích có sức truyền cảm thuyết phục con người”. Đây chính là hai tiêu chí cơ bản của văn chương để những nho sinh theo đó mà phấn đấu, rèn luyện.
Giếng thiên quang hay còn gọi là Văn Trì tức Ao Vua. Thiên Quang có nghĩa là giếng trời trong sáng. Giếng Thiên Quang hình vuông, có lan can gạch bao quanh, quanh năm nước đâỳ, mặt nước phẳng lặng, vừa tạo nên một nhịp tiếp nối kiến trúc hài hòa nơi trung tâm cho tổng thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám, có ý nghĩa như một hồ nước điều hòa không khí. Giếng Thiên Quang còn đóng vai trò một mặt gương thiên nhiên rộng lớn và sáng tỏ. Theo quan niệm của người xưa, giếng hình vuông tượng trưng cho mặt đất xanh tươi thuộc yếu tố Âm; còn cửa Khuê Văn Các có hình tròn và các tia sáng xòe rộng xung quanh tượng trưng cho mặt trời rực rỡ , thuộc yếu tố Dương. Hàm ý nơi đây là chốn hội tụ tinh hoa của trời đất ở giữa chốn đế đô, soi sáng cho nền văn chương khoa cử của nước Việt.
2.4. Vườn Bia Tiến Sĩ
Hai bên giếng Thiên Quang – một di tích có giá trị tư liệu bậc nhất tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám là Bia đá đặt tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám để vinh danh tên tuổi những người đỗ trong các kỳ thi tuyển Tiến sĩ triều Lê và Mạc. Trên mỗi tấm bia khắc một bài văn (bài ký) bằng chữ Hán, nội dung ghi lại lịch sử của các khoa thi tổ chức từ năm 1442 đến 1779. Có 82 tấm bia tương ứng với 82 khoa thi được dựng. Tấm bia Tiến sĩ đầu tiên được dựng năm 1484 đời vua Lê Thánh Tông, ghi lại lịch sử khoa thi năm 1442. Tấm bia cuối cùng được dựng vào năm 1780 cho khoa thi tổ chức vào năm 1779. Trên bia có khắc rõ tên và quê quán của 1307 vị tiến sĩ. Ở mỗi bên khu nhà bia đều có một tòa đình vuông, với 4 mặt trống không, bên trong thờ bia nên còn được gọi là Bi Đình. Người được khắc tên trên bia đầu tiên là ông Nguyễn Trực(1442)người cuối cùng được khắc tên trên bia là Phạm Huy Ôn(1779). Người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất là ông Bàn Tử Quang và đỗ khi tuổi mới 13, trẻ nhất là trạng nguyên Nguyễn Hiền. 82 tấm bia tiến sĩ là 82 phong cách điêu khắc, tuy kích thước khác nhau nhưng bia nào cũng được dựng trên lưng một con rùa, đầu ngẩng cao, 4 chân xoài ra trong tư thế đang bò lên bởi lẽ hình ảnh con rùa vốn rất gần gũi trong đời sống người Việt Nam. Trong các bàn thờ thờ Thành hoàng làng hình ảnh con rùa và con hạc thường uy nghi đứng hai bên như một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh của dân tội vì thế vua quan thời Lê cũng đã lấy hình tượng con rùa để gắn liền với bia Tiến sĩ. Ở nước ta, con rùa có vị trí rất đặc biệt từ thời An Dương Vương xây thành ốc Cổ Loa tại Đông Anh, Hà Nội. Nội dung mỗi tấm bia như là một câu chuyện có mở đầu có kết thúc với 3 phần: tiêu đề, bài ký, họ tên các Tiến sĩ và quê quán. Mỗi bài ký trên bia là một áng văn chương mẫu mực thể hiện rõ quan điểm tư tưởng về triết học, sử học, về giáo dục đào tạo và sử dụng nhân tài.Bia gồm 3 phần là trán bia, than bia và đế bia. Bia Tiến sĩ cũng là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ. Những Tấm Bia này được tổ chức UNESCO thế giới công nhận là di sản tư liệu của quốc tế là một trong những sự kiện lớn và niềm tự hào của toàn thể nhân dân thủ đô nói riêng và cả nước nói chung.
2.5. Khu Đại Thành
Văn Miếu – Quốc Tử Giám, một trong những di tích lịch sử và văn hóa quan trọng của Việt Nam, không chỉ là nơi thờ Khổng Tử mà còn là biểu tượng của nền giáo dục và Nho giáo, với những giá trị sâu sắc về đạo đức và học vấn. Cổng Đại Thành, được xây dựng theo phong cách thời Hậu Lê, là cửa chính dẫn vào khu thờ tự. Cổng này có ba gian gỗ, sơn đỏ, mái lợp ngói mũi hài, được trang trí với hình tượng rồng và mây, thể hiện sự vương giả và thịnh vượng. Trên cổng là dòng chữ “Đại Thành Môn,” lấy từ câu của Mạnh Tử khi nói về Khổng Tử: “Khổng Tử là Tập Đại Thành”, nghĩa là Khổng Tử là người đã thành đạt, tập hợp được tất cả học vấn và đức hạnh của các bậc tiên thánh. Hai cổng nhỏ bên cạnh cổng Đại Thành, Kim Thanh và Ngọc Chấn, tượng trưng cho tiếng vang của vàng và ngọc, thể hiện sự cao quý và giá trị của học vấn, trí tuệ.
Bước qua cổng Đại Thành, du khách sẽ tới sân Đại Bái, nơi từng là điểm tụ tập của học trò và giám sinh trước kỳ thi, nơi họ cầu nguyện cho sức khỏe và sự may mắn. Sân Đại Bái được lát bằng gạch Bát Tràng, tạo nên không gian thanh tịnh, trang nghiêm. Xung quanh sân là hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, hiện nay được sử dụng để trưng bày tranh ảnh và đồ lưu niệm, tạo thêm sự sinh động và phong phú cho khu vực này. Bái Đường, nằm ở chính giữa sân, gồm 9 gian với 40 cột trụ, là nơi tổ chức các nghi lễ lớn của Văn Miếu. Kiến trúc của Bái Đường mang đậm dấu ấn thời Hậu Lê với mái ngói mũi hài, trên mái là hình ảnh “lưỡng long chầu nguyệt” cùng các họa tiết rồng mây. Chính giữa Bái Đường là một hương án lớn, xung quanh là đôi Hạc đồng tử cưỡi rùa, tạo thành một biểu tượng hài hòa giữa các yếu tố thiên nhiên.
Chim hạc trong văn hóa phương Đông là hình tượng của sự tinh túy, thanh cao và bất tử. Hạc cũng được coi là loài chim của bậc quân tử, biểu trưng cho sự mạnh mẽ và kiên cường vượt qua khó khăn. Rùa, trong khi đó, là biểu tượng của sự kiên nhẫn, trí tuệ và trường tồn, với tuổi thọ dài và khả năng sống bền bỉ qua thời gian. Hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa tượng trưng cho sự hài hòa giữa trời và đất, giữa các yếu tố âm dương, thể hiện triết lý sống cân bằng trong Nho giáo. Đây là một hình ảnh quen thuộc trong các tác phẩm nghệ thuật và đồ thờ cúng, thể hiện sự gắn kết giữa các yếu tố vũ trụ và con người.
Bức hoành phi “Vạn thế sư biểu” treo trên Bái Đường là lời ca ngợi Khổng Tử, người được coi là “thầy của muôn đời”. Trước đây, có sự nhầm lẫn khi cho rằng bức hoành phi này dành cho cụ Chu Văn An, do sự nhầm lẫn về việc đặt tranh sơn dầu vẽ cụ Chu Văn An dưới bức hoành phi này. Tuy nhiên, “Vạn thế sư biểu” là danh hiệu dành riêng cho Khổng Tử, tôn vinh ông là người thầy tiêu biểu của mọi thời đại. Bức hoành phi này được làm vào năm 1888 trong đợt tu sửa Văn Miếu và đã trở thành một biểu tượng quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị giáo dục của Nho giáo.
Điện Đại Thành, nằm phía sau Bái Đường, là một công trình kiến trúc trang nghiêm, kết nối với Bái Đường bằng một tiểu đình hình vuông. Điện Đại Thành có 5 gian, mái ngói mũi hài, cột chống mái được sơn thếp vàng, tạo nên không khí trang trọng và tôn kính. Đây là nơi thờ Khổng Tử và các bậc hiền tài trong Nho giáo. Tượng Khổng Tử được đặt tại gian chính giữa, mặt nhìn về hướng Nam, theo quan niệm phong thủy, tượng trưng cho trí tuệ, đạo đức và tấm gương sáng ngời về giáo dục. Điện Đại Thành cùng với các công trình trong khuôn viên Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là một biểu tượng của nền văn hóa, giáo dục Việt Nam, ca ngợi sự học và đạo đức của các thế hệ học trò, cũng như thể hiện lòng kính trọng đối với Khổng Tử – người sáng lập học thuyết Nho giáo.
Tổng kết
Như vậy trong bài viết này, mình đã giới thiệu các bạn rất chi tiết khi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám. Rất hy vọng bài viết này sẽ giúp ích các bạn. Xin chào và hẹn gặp lại.
























